Luận Văn Tốt Nghiệp - Báo cáo Chuyên đề Thực tập

Download luận văn tốt nghiệp, tiểu luận, báo cáo thực tập kế toán,kiểm toán..
 
Trang ChínhTrang Chính  Liên hệLiên hệ  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng Nhập  
Liên hệ luận văn
..::Liên hệ email::..
luanvan84@gmail.com
_______
Hỗ trợ YM:liên hệ
chat với tôi
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Latest topics
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu
Keywords
trình doanh toán luong công dựng Đông nghiệp hàng trong thiết phát hoàn thực xuất măng TNHH tien kinh phần CHÍNH kiểm TÍCH thanh TÌNH quản

Share
 

 CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HÀNG DỆT MAY CỦA VINATEXIMEX SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
LuanVan
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 801
Join date : 06/01/2012
Đến từ : Việt Nam

CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HÀNG DỆT MAY CỦA VINATEXIMEX SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN Empty
Bài gửiTiêu đề: CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HÀNG DỆT MAY CỦA VINATEXIMEX SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN   CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HÀNG DỆT MAY CỦA VINATEXIMEX SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN Icon_minitime8/4/2012, 4:29 am

Đề tài:CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HÀNG DỆT MAY CỦA VINATEXIMEX SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN (52 trang) 59
CHƯƠNG I:
ĐẶC ĐIỂM HÀNG DỆT MAY THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN VÀ KHẢ NĂNG XUẤT KHẨU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG NÀY.

1.Đặc điểm thị trường hàng dệt may Nhật Bản.
1.1-Các chính sách của thị trường Nhật Bản về hàng may mặc.
Để kinh doanh hàng dệt may trên thị trường Nhật Bản thì các doanh nghiệp phải tuân thủ những đạo luật sau:
1.1.1-Chế độ cấp giấy phép nhập khẩu.
-Hàng nhập khẩu được quy định bởi lệnh kiểm soát nhập khẩu theo mục 6 điều 15 của luật kiểm soát ngoại thương và ngoại hối. Các loại hàng hoá này bao gồm tất cả các loại động sản. kim loại quý (vàng thoi, vàng hợp chất, tiền đúc không lưu thông và các mặt hàng khác có hàm lượng vàng cao), chứng khoán, giấy chứng nhận tài sản vô hình… không thuộc sự điều tiết của lệnh kiểm soát nhập khẩu mà do lệnh kiểm soát ngoại hối quy định. Tuy hầu hết hàng nhập khẩu không cần giấy phép nhập khẩu của MITI (Bộ Công Thương Quốc Tế) thì các mặt hàng sau
1.1.1-Quản lý chất lượng và ghi nhãn.
*Hàng hoá lưu thông trên thị trường phải có nhãn mác đúng tiêu chuẩn và nhãn mác phải thể hiện đúng xuất xứ hàng hoá sao cho người tiêu dùng không nhầm lẫn sản phẩm do Nhật Bản sản xuất với sản phẩm sản xuất ở nước ngoài và họ có thể nhanh chóng xác định được xuất xứ của hàng hoá, cấm nhập khẩu các sản phẩm có nhãn mac mập mờ, giả mạo về xuất xứ.
*Tiêu chuẩn JIS (Japan Industrial Standards).
JIS – một trong những dấu chất lượng được sử dụng rộng rãI ở Nhật – là hệ thống tiêu chuẩn chất lượng áp dụng cho hàng hoá công nghiệp. Tiêu chuẩn chất lượng này dựa trên “Luật tiêu chuẩn hàng hoá công nghiệp” được ban hành vào tháng 6-1949 và thường được biết đến dưới cái tên “Dấu chứng nhận tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản” hay JIS.
-Dấu JIS được áp dụng cho rất nhiều loại sản phẩm khác nhau như: vải, quần áo, các thiết bị điện, giày dép, bàn ghế và các loại sản phẩm khác đòi hỏi phải tiêu chuẩn hoá về chất lượng và kích cỡ hay các quy cách phẩm chất khác. Dấu này lúc đầu được áp dụng để tạo ra một chuẩn mực về chất lượng cho các sản phẩm xuất khẩu khi Nhật Bản bán sản phẩm của mình ra nước ngoài. Nói chung, các tiêu chuẩn JIS được sửa đổi bổ xung theo định kỳ để phù hợp với các tiến bộ của công nghệ. Tuy nhiên tất cả các tiêu chuẩn JIS đều được bổ xung ít nhất là 5 năm một lần kể từ ngày ban hành, ngày sửa đổi hay ngày xác nhận lại của tiêu chuẩn. Mục đích của việc sửa đổi bổ xung là nhằm đảm bảo cho các tiêu chuẩn chất lượng luôn hợp lý và phù hợp với thực tế.
-Theo quy định của “Luật tiêu chuẩn hoá Nhật Bản”, dấu chứng nhận tiêu chuẩn JIS chỉ được phép áp dụng cho các sản phẩm thoả mãn các yêu cầu về chất lượng của JIS. Do đó khi kinh doanh các sản phẩm này chỉ cần kiển tra dấu chất lượng tiêu chuẩn JIS là đủ để xác nhận chất lượng của chúng. Hệ thống dấu chất lượng này áp dụng ở nhiều nước thực hiện tiêu chuẩn hoá. ở Nhật Bản, giấy phép đóng dấu chứng nhận tiêu chuẩn JIS trên hàng hoá do Bộ trưởng Bộ Công Thương cấp cho nhà sản xuất khi sản phẩm của họ được xác nhận là có chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn JIS.
Theo luật tiêu chuẩn hoá công nghiệp được sửa đổi tháng 4 năm 1980, các nhà sản xuất nước ngoài cũng có thể được cấp giấy phép đóng dấu chứng nhận tiêu chuẩn JIS trên sản phẩm của họ nếu như sản phẩm đó cũng thoả mãn các yêu cầu về chất lượng của JIS. Đây là kết quả của việc Nhật Bản tham gia ký kết hiệp định “Bộ tiêu chuẩn” (trước kia là hiệp định về các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại) của GATT (General Agreement on Trade and Tariff) – Hiệp định chung về thương mại và thuế quan. Các sản phẩm được đóng dấu theo cách này được gọi là “Các sản phẩm đóng dấu JIS” và có thể dễ dàng xâm nhập vào thị trường Nhật Bản.
Tuy nhiên để có thể nộp đơn xin cấp giấy phép sử dụng dấu chứng nhận tiêu chuẩn JIS cần phải có một số tiêu chuẩn nhất định về cách thức nộp đơn và các vấn đề chuẩn bị cho việc giám định nhà máy, chất lượng sản phẩm. Đối với các nhà sản xuất nước ngoài, các số liệu giám định do các tổ chức giám định nước ngoài do Bộ Trưởng Bộ Công Thương chỉ đình có thể được chấp nhận.
*Luật nhãn hiệu chất lượng hàng hóa gia dụng: luật này đòi hỏi tất cả các sản phẩm quần áo đều phải dán nhãn trên nhãn ghi rõ thành phẩm của vải và các biện pháp bảo vệ sản phẩm thích hợp.
*Luật kiểm tra các sản phẩm gia dụng có chứa các chất độc hại: luật này quy định tất cả các sản phẩm gia dụng phải tuân thủ các tiêu chuẩn về mức độ cho phép đối với các chất gây nguy hiểm cho da. Các sản phẩm may mặc có mức độ độc hại cao hơn mức cho phép sẽ bị cấm bán ở thị trường Nhật Bản.
*Luật thuế hải quan: luật này quy định cấm nhập khẩu các sản phẩm mang nhãn mác giả mạo vi phạm nhãn mác thương mại hoặc quyền sáng chế.
Chú ý: nếu quần áo tơ lụa có các bộ phận được làm từ da hoặc lông thú thì sản phẩm này sẽ phải tuân theo các điều khoản của hiệp ước WASHINGTON.
Các chính sách của Nhật Bản về nhập khẩu hàng may mặc là tương đối khắt khe, nhất là với các nước đang phát triển bởi các nước này ít kinh doanh dựa trên nhãn mác của mình, chất lượng sản phẩm chưa cao, tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm thấp. Do vậy, công ty cần đẩy mạnh hơn nữa việc kinh doanh trên nhãn mác của mình, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm băng cách sử dụng triệt để nguồn nguyên liệu trong nước một cách có hiệu qủa nhằm thích ứng với các chính sách của Nhật Bản và chiến thắng các đối thủ cạnh tranh.
1.2- Nghiên cứu đánh giá thị trường hàng dệt may Nhật Bản.
1.2.1-Vài nét về nền kinh tế Nhật Bản.
Với 126 triệu dân, GDP đạt xấp xỉ 4200 tỷ USD vào năm 1997, Nhật Bản là thị trường tiêu dùng lớn thứ hai trên thế giới chỉ đứng sau Mỹ. Đồng thời cũng là một nước nhập khẩu lớn, với kim ngạch nhập khẩu hàng năm nên tới 300-400 tỷ USD.
Năm 1994, nhập khẩu tăng hàng năm 14%, đạt mức 274,8 tỷ USD, năm 1996, kim ngạch nhập khẩu đạt mức 330 tỷ USD, năm 1997 đạt 338 tỷ USD.nhập khẩu các sản phẩm công nghiệp đặc biệt tăng mạnh, năm 1994 tăng 21% đạt mức kỉ lục 151,7 tỷ USD kim ngạch nhập khẩu, chiếm 55,21% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu.
Năm 1998 lần đầu tiên kể từ năm 1982 nền kinh tế Nhật Bản phải chứng kiến tình trạng suy giảm cả về xuất khẩu và nhập khẩu. Trong năm này xuất khẩu chỉ đạt 386,3 tỷ USD, giảm 8,7%, nhập khẩu chỉ đạt 279,3 tỷ USD, giảm 17,9% so với năm 1997. Nguyên nhân chính dẫn đến kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của Nhật Bản giảm sút là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á.
Gần đây, Nhật Bản đã cố gắng tăng hàng nhập khẩu mà chủ yếu là từ các nước đang phát triển hơn là từ các nước công nghiệp bằng việc cải thiện khả năng tiếp cận thị trường của các nhà cung cấp.
Chính phủ Nhật Bản cũng đã cố gắng để đơn giản hoá các thủ tục hải quan và nhập khẩu, cũng như áp dụng các biện pháp nhằm đơn giản các yêu cầu về giấy chứng nhận, công nhận và sử dụng các số liệu kiểm tra của nước ngoài. Chính phủ còn sửa đổi các tập quán nhập khẩu của Nhật Bản cho phù hợp với các chế độ và nguyên tắc của quốc tế.
1.2.2-Chính sách phát triển Nhật Bản trong những năm tới
Để khôi phục nền kinh tế và tạo tiền đề cho việc phát triển trong những năm đầu thế kỷ 21, Nhật Bản đã đề ra chính sách kinh tế tổng thể với ba nhiệm vụ chủ yếu cần phải được tiến hành đông thời là:
1-Thực hiện các biên pháp mạnh mẽ nhằm tăng nội nhu thông qua đầu tư vào cơ sở hạ tầng xã hội và cắt giảm thuế.
2- Thúc đẩy nhanh cải cách kinh tế. Các biện pháp nhằm làm tăng nội nhu nói trên phải phù hợp với phương hướng cải tổ lâu dài cơ cấu kinh tế nhằm cải thiện các điều kiện cơ bản của nền kinh tế Nhật Bản.
3- Đẩy mạnh việc xoá bỏ những khoản nợ khó đòi làm cản trở việc hồi phục nền kinh tế.
Đối với các nước Châu á, Nhật Bản đã đề ra những biện pháp sau nhằm hỗ trợ cho việc ổn định hoá nền kinh tế và thúc đẩy cải tổ cơ cấu kinh tế ở các nước đang gặp phải khó khăn kinh tế do việc khủng hoảng tài chính, tiền tệ vừa qua gây ra:
1-Hỗ trợ tạo điều kiện thực hiện tài trợ cho thương mại thông qua việc sử dụng các khoản vay của ngân hàng xuất nhập khẩu Nhật Bản.
2-Hỗ trợ cải tổ nền kinh tế thông qua việc lập nên hệ thống lãi suất đặc biệt khẩn cấp cho các khoản vay chính phủ bằng đồng yên được giải ngân sớm.
3- Tăng cường hỗ trợ phát triển nhân lực.
4- Trợ giúp cho các công ty con của Nhật Bản tại các nước này.
Để thực hiện các biện pháp trên, Nhật Bản đã đưa ra chương trình tài chính Miyazawa với các khoản vay trị giá 30 tỷ USD nhằm giúp cho một số nước châu á, trong đó có Việt Nam sớm thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua.
Việc phụ thuộc lẫn nhau giữa Nhật Bản và các nước Châu á, trong đó Nhật Bản vừa là một trong những nước đầu tư lớn nhất, vừa là đối tác buôn bán quan trọng ở các nước này, đã khiến cho Nhật Bản có những đóng góp tích cực trong việc giúp cho việc phục hồi nền kinh tế các nước này trong thời gian qua và trong những năm tới. Việc tranh thủ được sự hỗ trợ trên của Nhật Bản sẽ phần nào giúp cho Việt Nam vượt nhanh qua được những khó khăn trước mắt do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực vừa qua, thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước trong thập kỷ tiếp theo
1.2.3-Nghiên cứu đánh giá thị trường hàng dệt may Nhật Bản.
-Nhật Bản là thị trường lớn nhất Châu Á, thứ ba thế giới về nhập khẩu hàng may mặc phục vụ cho tiêu dùng nội địa, nhịp độ tăng của hàng may mặc nhập khẩu khá cao, bình quân 17% trong giai đoạn 1990-1996. Nhập khẩu quần áo của Nhật Bản tăng và đạt đỉnh cao năm 1995 với mức tăng 23% so với năm 1994. Trong các năm 1993-1995 nhập khẩu quần áo của Nhật Bản đều tăng với mức tăng hai con số, nhưng đến năm 1996 do kinh tế suy thoái, nhập khẩu quần áo của Nhật Bản có xu hướng chững lại và chỉ tăng với mức độ khiêm tốn là 5% so với năm 1995- mức tăng thấp nhất trong những năm qua và giảm 14,3% trong năm 1997 chỉ đạt 16.727 triệu USD. Trong 6 tháng đầu năm 1997 nhập khẩu quần áo của Nhật Bản chỉ tương đương các mức cùng kỳ năm 1996. đIũu đó cho thấy nhập khẩu quần áo bước vào giai đoạn điều chỉnh và sẽ có thể tiếp tục điều chỉnh trong thời gian tới. Đến năm 1998 nhập khẩu hàng may mặc giảm 5,3% so với năm 1997.
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và suy thoái kinh tế kim ngạch nhập khẩu quần áo của Nhật Bản năm 1997 đã giảm đi 4,6% sau khi tăng tới 22,25% trong năm 1996. Trong đó kim ngạch nhập khẩu hàng dệt thường giảm 7,3% và hàng dệt kim giảm 0,9%, kim ngạch nhập khẩu quần áo dệt thường năm 1997 vào Nhật Bản đã giảm 86,7 tỷ yên so với năm 1996.
Hiện nay Nhật Bản là thị trường hàng may mặc lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ, tổng giá trị buôn bán hàng may mặc trong năm 1999 là 35,63 tỷ USD, trong đó hàng may mặc nữ chiếm khoảng 55%, hàng may mặc cho nam giới chiếm khoảng 32% và cho trẻ em chiếm khoảng 12%
Thị trường Nhật Bản mở cửa đối với hàng may mặc, kim nghạch nhập khẩu đã chiếm tỷ trọng khoảng 38% tổng khối lượng thị trường hàng may mặc nước này. tuy nhiên, các nhà nhập khẩu hàng may mặc vào Nhật Bản phải đóng thuế và chịu trách nhiệm về nhãn hiệu hàng hoá.
Hiện nay,hàng của trung quốc đang thống soái thị trường hàng may mặc nhập khẩu của Nhật Bản, với thị phần năm 1998 là 67,9%. Hầu hết hàng may mặc Nhật Bản nhập từ Trung Quốc là do các công ty của Nhật hoặc các liên doanh Nhật- Trung đóng tại Trung Quốc sản xuất. Trong năm 1998, Hàn Quốc xuất sang Nhật một lượng hàng may mặc chiếm 5,6% tổng lượng hàng may mặc nhập khẩu của Nhật Bản. Theo phân tích, các nhà sản xuất và cung ứng Nhật Bản đặt các nhà máy ở Hàn Quốc thì vận chuyển nhanh hơn từ Trung Quốc. Tuy lượng hàng may mặc mà Nhật Bản nhập từ Hàn Quốc trong năm 1998 mới chỉ chiếm 5,6% tổng lượng hàng nhập, nhưng con số này đã tăng 19% so với năm 1997. Hàng may mặc của Việt Nam xuất sang Nhật Bản năm 1998 chiếm tỷ trọng 3% tổng lượng hàng nhập của nước này so với 7,4% của Italia, 3,3% của Mỹ và 2% của Pháp.
Do thiếu lao động và do chi phí nhân công cao, nhiều nhà sản xuất hàng may mặc Nhật Bản đã chuyển ra nước ngoài sản xuất. Do vậy, sản xuất hàng may mặc nội địa ở Nhật Bản đã, đang và sẽ giảm. Chính vì lẽ đó mà tỷ trọng xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam vào Nhật Bản năm 1999 tăng lên hơn 1% so với kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang Nhật Bản trong năm 1998.
Qua những số liệu về tình hình xuất khẩu hàng may mặc vào Nhật Bản, người ta có thể dễ dàng cho rằng thị trường hàng may mặc giờ đây đã hoàn toàn “thuộc về” các nhà sản xuất nước ngoài. Nhưng thực tế, tình hình xuất nhập khẩu hàng may mặc của các công ty sản xuất kinh doanh may mặc Nhật Bản đã phát triển theo hai xu hướng chính:
-Xu hướng thứ nhất: ngày nay người tiêu dùng các sản phẩm may mặc đang tìm kiếm các loại hàng không đắt tiền. Đối phó với tình hình này, các nhà sản xuất Nhật Bản đã phải chuyển hướng. Để giảm chi phí sản xuất, các công ty Nhật Bản đưa nguyên liệu may mặc ra nước ngoài để gia công, và các nước Châu á đặc biệt là Trung Quốc và các nước Đông Nam Á là một “địa chỉ ”hấp dẫn với giá nhân công rẻ.
Giữa tháng 4-2000 các đại diện ngành công nghiệp dệt Nhật Bản gặp Bộ Trưởng ITI-Takaski Fukaya kiến nghị ông ta cần có biện pháp đIũu chỉnh chính sách thương mại về việc nhập khẩu sản phẩm dệt, và khuyến khích nhập khẩu quần áo được sản xuất từ vải của Nhật thông qua việc miễn thuế nhập khẩu.
-Xu hướng thứ 2: trong hoàn cảnh hàng loạt các nhà máy sản xuất hàng may mặc nội địa bị đóng cửa, thì việc nghiên cứu và phát triển thành công các sản phẩm có giá trị cao như sơ mi mặc được ngay không cần là sau....
Về Đầu Trang Go down
https://luanvan.forumvi.com
 

CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HÀNG DỆT MAY CỦA VINATEXIMEX SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 Similar topics

-
» Thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật Bản của Trung tâm thương mại Hồ Gươm
» GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CHÈ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG NGA
» Một số giải pháp và kiến nghị về chính sách tài chính thúc đẩy xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường Hoa kỳ
» Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Xuất nhập khẩu dệt may sang thị trường Mỹ
» Thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT sang thị trường Nhật Bản

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Luận Văn Tốt Nghiệp - Báo cáo Chuyên đề Thực tập :: Luận Văn Kinh Tế :: Luận Văn ngành Kinh doanh quốc tế-
Luận Văn Kinh Tế