Luận Văn Tốt Nghiệp - Báo cáo Chuyên đề Thực tập

Download luận văn tốt nghiệp, tiểu luận, báo cáo thực tập kế toán,kiểm toán..
 
Trang ChínhTrang Chính  Liên hệLiên hệ  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng Nhập  
Liên hệ luận văn
..::Liên hệ email::..
luanvan84@gmail.com
_______
Hỗ trợ YM:liên hệ
chat với tôi
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Latest topics
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu
Keywords
phát măng Đông trong hoàn công TÌNH xuất quản TÍCH thực phần TNHH kinh doanh luong trình thanh thiết kiểm hàng dựng CHÍNH toán nghiệp tien

Share
 

 Triển vọng và những giải pháp thúc đẩy thương mại Việt Nam-EU

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
LuanVan
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 801
Join date : 06/01/2012
Đến từ : Việt Nam

Triển vọng và những giải pháp thúc đẩy thương mại Việt Nam-EU Empty
Bài gửiTiêu đề: Triển vọng và những giải pháp thúc đẩy thương mại Việt Nam-EU   Triển vọng và những giải pháp thúc đẩy thương mại Việt Nam-EU Icon_minitime8/4/2012, 2:34 am

Đề tài:Triển vọng và những giải pháp thúc đẩy thương mại Việt Nam-EU (60 trang) 20
MỞ ĐẦU

Vào những năm cuối cùng của thế kỷ XX, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và sự chấm dứt chiến tranh lạnh, toàn cầu hoá đã trở thành một xu thế chính trong đời sống chính trị thế giới. Xu thế tự do hoá toàn cầu phá tan xu hướng khép kín của mỗi quốc gia trên hành tinh đồng thời tăng cường sự tuỳ thuộc về lợi ích kinh tế giữa các quốc gia.
Để hội nhập một cách có hiệu quả, tại Đại hội Đảng lần thứ VII-6/1991, Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa ra đường lối đối ngoại mở rộng nhằm đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế trên tinh thần Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trên thế giới phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển.
Thực tiễn trong hơn thập niên qua, Việt Nam đã tăng cường mở rộng quan hệ với thế giới, trong đó nổi lên mối quan hệ hợp tác ngày càng có hiệu quả giữa Việt Nam và EU. Hai bên đã lấy việc bình thường hoá quan hệ (10/1990) và cao hơn nữa là Hiệp định khung được ký kết ngày 17/7/1995 là một nền tảng, cơ sở pháp lý cho việc thúc đẩy quan hệ về mọi mặt. Đặc biệt quan hệ thương mại giữa Việt Nam - EU đã có một vị trí xứng đáng.
Quan hệ Việt Nam-EU thể hiện sự đúng đắn của đường lối chính sách của Việt Nam từ lý luận tới thực tiễn. Chính sách mở cửa đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước ta trong những năm tới.
Quan hệ hợp tác giữa Việt Nam-EU góp phần vào sự phát triển kinh tế của nước ta trong thời gian qua.
Ở đây tác giả tập trung đi sâu vào quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU trong 10 năm qua (1990 - 2000) và đề ra triển vọng và những giải pháp cho việc thúc đẩy quan hệ thương mại hai bên.
Luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về quan hệ Việt Nam-EU.
Chương 2: Quan hệ Thương mại Việt Nam-EU.
Chương 3: Triển vọng và những giải pháp thúc đẩy thương mại Việt Nam-EU.
Nhân dịp này em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ từ phía các thầy cô trong khoa Quan hệ Quốc tế, đặc biệt sự hướng dẫn của thầy Ngô Duy Ngọ giúp cho em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp.


Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM -EU
1- Khái quát về Liên minh châu Âu(EU).
Chiến tranh thế giới lần 2 kết thúc để lại một nền kinh tế kiệt quệ cho các nước Tây Âu. Họ cần thấy sự cần thiết phải hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa các nước trong khu vực với nhau để xây dựng và ngăn chặn chiến tranh đặc biệt chú trọng vào phát triển kinh tế. Cũng vào thời điểm này bộ mặt nền kinh tế thế giới đã có những thay đổi to lớn. Đó là do sự phát triển lực lượng sản xuất, sự phát triển vũ bão của cách mạng khoa học kỹ thuật. Sau chiến tranh Mỹ đã thực sự trở thành siêu cường về kinh tế và chính trị với ý đồ làm bá chủ thế giới. Do vậy, các nước Tây Âu không thể không hợp tác phát triển kinh tế và thông qua việc tăng cường kinh tế giữa họ với nhau và việc thiết lập một tổ chức siêu quốc gia nhằm điều hành phối hợp hoạt động kinh tế khu vực. Ý tưởng thống nhất châu Âu đã có từ lâu vào thời điểm này đã dần trở thành hiện thực.
Từ năm 1923, Bá tước người Áo, ông Con-denhove-Kalerg đã sáng lập ra Phong trào Liên minh châu Âu .
Đến năm 1929, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp ông A.Briand đã đưa ra đề án Liên minh châu Âu thì đến sau Chiến tranh thế giới lần 2 những ý tưởng đó mới dẫn tới các sáng kiến cụ thể ¬( ).
Có 2 hướng vận động cho việc thống nhất châu Âu, đó là:
Hợp tác giữa các quốc gia và bên cạnh việc bảo đảm chủ quyền dân tộc.
Hoà nhập hay là “nhất thể hoá”: Các quốc gia đều chấp nhận và tuân thủ theo một cơ quan quyền lực chung siêu quốc gia .
Xuất phát từ hai hướng vận động trên, ngày 09/05/1950, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp ông Robert Schuman đề nghị đặt toàn bộ nền sản xuất than, thép của Cộng hoà Liên bang Đức và Pháp dưới một cơ quan quyền lực chung trong một tổ chức “mở” để các nước châu Âu khác cùng tham gia. Đây được coi là nền móng đầu tiên cho một “ Liên minh châu Âu” để gìn giữ hoà bình. Với nỗ lực chung, Pháp và Đức đã phá đi hàng rào ngăn cách giữa hai quốc gia được coi là ảnh hưởng to lớn tới tiến trình nhất thể hoá châu Âu. Bằng sự cố gắng dàn xếp “cùng nhau gánh vác trọng trách chung thì đó sẽ là một bước tiến quan trọng về phía trước” ( Phát biểu Thủ tướng Đức Konist Adanauer). Ngày 13/07/1952, Hiệp ước thiết lập Cộng đồng than thép châu Âu (CECA) do sáu nước Pháp, Bỉ, Cộng hoà Liên bang Đức, Italia, Hà Lan, Lucxămbua ký kết.
Trên cơ sở kết quả của CECA mang lại về mặt kinh tế cũng như chính trị. Chính phủ các nước thành viên thấy cần thiết phải tiếp tục con đường đã chọn để sớm đạt được “thực thể châu Âu mới”. Do đó, ngày 25/03/1957, Hiệp ước thiết lập Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) và Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu (CEEA) đã được ký kết tại Rome. Cùng với sự phát triển của quá trình liên kết, năm 1967 cả CECA, CEEA và EEC chính thức hợp thành một tổ chức chung gọi là “Cộng đồng châu Âu ” (EC).
Trong khi các nước châu Âu tiến gần tới một tổ chức có tính liên kết cao, thì chính phủ Anh đón nhận Tuyên bố Schuman một cách lạnh nhạt, chỉ trích việc thành lập CECA vì nó đụng chạm tới chủ quyền dân tộc. Nhưng sự ra đời tiếp theo của EEC và CEEA lại làm họ lúng túng. Do vậy, Anh chủ trương thành lập “Khu vực mậu dịch Tự do châu Âu hẹp” và EFTA ra đời gồm có Anh, Nauy, Thuỵ Điển, Đan Mạch, Áo, Bồ Đào Nha, Thuỵ Sỹ, Phần Lan và Ailen.
Tuy nhiên, do mục tiêu đơn thuần về kinh tế nên EFTA đã không giúp cho nước Anh nâng cao vị trí ở Tây Âu , trên trường quốc tế và bị cô lập. Trong khi đó, EC đã ít nhiều đạt được những thành quả nhất định cả trên lĩnh vực kinh tế lẫn chính trị. Do vậy, Anh cùng với 3 nước Đan Mạch, Ailen và Na Uy xin gia nhập EU và ngày 01/01/1973, EU có thêm 3 thành viên mới là Anh, Ailen, Đan Mạch, riêng
Na Uy không gia nhập vì đa số nhân dân không ủng hộ.
Nhờ có được những thành công đã đạt được về kinh tế, chính trị, EU không ngừng việc mở rộng quá trình liên kết rộng rãi giữa các nước, đến ngày 01/01/1986, EU đã tăng lên 12 thành viên.
Đỉnh cao của quá trình thống nhất châu Âu được thể hiện qua cuộc họp thượng đỉnh của các nước EU tổ chức tại Maastricht (Hà Lan) từ ngày 09 đến 10/12/1991. Tại Hội nghị này các nước thành viên đã đi đến quyết định thành lập Liên minh kinh tế và tiền tệ EMU và Liên minh chính trị (EPU) nhằm làm châu Âu thay đổi một cách cơ bản vào năm 2000 với một sự liên kết kinh tế sâu rộng hơn sau khi đựơc các quốc gia phê chuẩn ngày 01/01/1993, Hiệp ước Maastricht có hiệu lực.
Mục tiêu của việc hình thành EU được thể hiện ngay trong các hiệp ước ở Rômma về thành lập Cộng đồng kinh tế châu Âu năm 1957. Đó là tăng cường sự liên kết về mặt kinh tế, tập hợp sức mạnh của các quốc gia, giải quyết các vấn đề kinh tế nảy sinh trong từng nước và cả cộng đồng trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Thông qua sự liên kết ngày càng chặt chẽ nội bộ cộng đồng để thiết lập một khu vực tiền tệ ổn định ở Tây Âu nhằm cạnh tranh với đồng đôla Mỹ, về lâu dài để hình thành một Liên minh tiền tệ và kinh tế thống nhất và tiến tới tăng cường liên kết về mặt chính trị.
Triển vọng sáng sủa của EU là sự hấp dẫn không những đối với các nước châu Âu mà còn đối với các nước khác trong khu vực. Sau lần mở rộng lần thứ 3 (01/01/1995), EU bước vào thời kỳ mới gồm 15 nước thành viên. Điều này cho thấy rõ bước tiến quan trọng trong tiến trình hoà nhập châu Âu và ảnh hưởng của EU không chỉ đến tình hình kinh tế, chính trị của từng nước trong EU mà còn cả đến châu Âu theo hướng “hướng tâm” mà hạt nhân chính là EU.
Hiện nay, EU cũng đang tạo những điều kiện thuận lợi cho các Đông Âu có đủ điều kiện để gia nhập EU để tăng cường sức mạnh kinh tế, mở rộng thị trường. Những năm cuối của thế kỷ 20, EU là một trong ba trung tâm kinh tế thế giới như dẫn đầu thế giới về thương mại và đầu tư. Với 370 triệu dân, tổng sản lượng quốc gia 7.074 tỷ USD, nhập khẩu hàng hoá đạt giá trị 646.350 tỷ USD (1) . Chiếm 1/3 sản lượng công nghiệp thế giới TBCN, gần 50% xuất khẩu và hơn 50% các nguồn tư bản. Và đặc biệt việc EU thống nhất thị trường tiền tệ, ra một đồng tiền chung (01/01/1999) đã đánh dấu sự phát triển về chất của EU.
2 - Quá trình phát triển quan hệ Việt Nam-EU.
2.1. Khái quát về tình hình kinh tế Việt Nam.
Với chính sách đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế trong đó chính sách đa dạng hoá, đa phương hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại nổi lên hàng đầu của Đảng ta xác định từ Đại hội Đảng lần VII (06/1991), đã mang lại cho Việt Nam cơ hội mới để mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế thương mại với các cường quốc phát triển và các trung tâm kinh tế trên thế giới trong đó có Liên minh châu Âu. Bên cạnh đó, với đường lối chính sách này đã đưa đất nước ta bắt kịp nhịp độ phát triển kinh tế với tốc độ phát triển cao trên thế giới và trong khu vực.
Đường lối của Đảng ta là đúng đắn bởi vì cho đến nay Việt Nam hiện có quan hệ với 168 nước, quan hệ thương mại với hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ; là thành viên của ASEAN(07/1995), tham gia vào AFTA; ký Hiệp định thương mại với Mỹ ngày 14/07/2000. Cụ thể, công cuộc Đổi mới ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt trong đó có kinh tế.
Tính chung, tốc độ tăng trưởng bình quân năm của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã tăng 3,9% trong thời kỳ 1986-1990 lên 8,21% trong thời kỳ 1991-1995 và gần 7% trong thời kỳ 1996-20002.
Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá. Từ năm 1985 đến năm 2000, tỷ trọng của nông-lâm-thuỷ sản trong GDP đã giảm từ 3% xuống 24,1% trong khi tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ đã tăng tương ứng từ 29,3% lên 36,9% và từ 27,7% lên 39%.
Đối với phát triển kinh tế, nạn lạm phát đã được đẩy lùi từ ba con số trong những năm 1986-1988 xuống còn hai con số trong năm 1989-1992 và chỉ còn một con số từ năm 1993 đến nay.
Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 154 nước trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu đã tăng từ 729,9 triệu USD năm 1987 lên 14,308 tỷ USD năm 2000, đạt bình quân 180 USD/người, được xếp vào nước có nền ngoại thương phát triển. Kim ngạch nhập khẩu tăng tương ứng từ 2,13 tỷ lên gần 15 tỷ USD. Tính đến đầu năm 2000 đã có 700 công ty thuộc 66 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam với 2290 dự án và 35,5 tỷ USD vốn đăng ký, trong đó có 15,1 tỷ USD đã được thực hiện.
Trong sự nghiệp Đổi mới dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cộng sản Việt Nam, đã đạt được những thành tựu to lớn. Bên cạnh sự nỗ lực to lớn của chính chúng ta, từng bước đưa nền kinh tế đi lên, từng bước thoát khỏi sự nghèo nàn lạc hậu thì Việt Nam cũng nhận được sự giúp đỡ to lớn của bạn bè quốc tế trong đó có sự đóng góp, hỗ trợ không ngừng từ phía đối tác EU trong sự nghiệp xây dựng đất nước của Việt Nam.
Với đường lối đổi mới đúng đắn “ Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” (Nguồn Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nxb Sự thật Hà nội 1991 tr147), với chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá đa phương hoá thì vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế, Việt Nam được bạn bè quốc tế đánh giá cao sự nghiệp lãnh đạo kinh tế của Đảng cộng sản Việt Nam và Việt Nam không ngừng là tấm gương sáng trong sự nghiệp đấu tranh và giải phóng đất nước mà còn là nước đi đầu trong việc xoá đói giảm nghèo, xây dựng kinh tế đất nước phát triển trong thế kỷ 21.
Việt Nam được đánh giá trong chiến lược của EU đang ngày càng có vị thế cao trên trường quốc tế và khu vực Đông Nam Á, là một nước nằm trong khu vực phát triển kinh tế châu Âu -Thái Bình Dương (Thái Bình Dương) năng động nhất của thế giới trong thế kỷ 21.
Do vậy, EU đã có mối quan hệ truyền thống từ lâu với Việt Nam, hiểu rõ về Việt Nam hơn so với các đối tác khác thì nay trong việc chạy đua nâng cao vị trí kinh tế cũng như về chính trị vượt lên hẳn so với Mỹ, Nhật thì EU không thể bỏ qua Việt Nam được và luôn coi Việt Nam có vị trí xứng đáng trong chiến lược mở rộng ảnh hưởng cuả EU tại ASEAN và trong khu vực châu Á-TBD thông qua cơ chế hợp tác Á-Âu (ASEM).
EU đã tìm thấy ở Việt Nam những ưu thế địa chính trị, địa kinh tế, để lấy Việt Nam làm điểm tựa quan trọng trong chiến lược đối ngoại của mình với châu Á.
2.2. Quan hệ Việt Nam -EU.
Ngay từ năm 1975-1978, EU đã có tiếp xúc chính trị với Việt Nam, viện trợ kinh tế cho Việt Nam 109 triệu USD trong đó có viện trợ trực tiếp là 68 triệu USD. Song do vấn đề kinh tế Campuchia nên EU đã ngừng viện trợ cho Việt Nam. ...........
Về Đầu Trang Go down
https://luanvan.forumvi.com
 

Triển vọng và những giải pháp thúc đẩy thương mại Việt Nam-EU

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 Similar topics

-
» Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU và đề ra triển vọng và những giải pháp
» Những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam  Hoa Kỳ
» Một số giải pháp phát triển hoạt động bán hàng bằng hình thức thương mại điện tử ở Việt Nam
» Các giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước Bắc Phi đến năm 2010
» Những giải pháp nhằm đẩy nhanh việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ AFTA

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Luận Văn Tốt Nghiệp - Báo cáo Chuyên đề Thực tập :: Luận Văn Kinh Tế :: Luận Văn ngành Kinh doanh quốc tế-
Luận Văn Kinh Tế